Hà
Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2014
ĐƠN KÊU CỨU
KHẨN CẤP
V/v : Chính quyền địa phương huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội vi phạm trình tự,
thủ tục thu hồi đất. Công an, Viện kiểm sát huyện Mỹ Đức vi phạm luật tố tụng,
vi phạm hoạt động tư pháp; ép cung, bức cung, dựng hồ sơ chứng cứ giả bắt giam
và truy tố người dân trái pháp luật
Kính gửi : Bà Lê Hiền Đức - Công dân chống tham nhũng
Trước tiên chúng tôi được gửi tới Quý Bà/ Quý Ông lời
chào trân trọng. Sau đây, chúng tôi xin được trình bày một việc như sau:
Chúng tôi gồm những bị cáo: Nguyễn Thị Tứ,
Vương Thị Sự, Đinh Thị Liên, Phạm Thị Linh, Vương Thị Thảo, Đinh Thị Hưng (tại
ngoại) và người nhà của các bị cáo Đinh Văn Chính, Lê Thị Thu, Trịnh Thị Nhung,
Đinh Thị Hà thường trú tại thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội
cùng hàng trăm những người dân địa phương vô cùng bức xúc trước các hành vi giã
man, thâm hiểm của Chính quyền địa phương huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội đã không thực
hiện đúng pháp luật vi phạm trình tự, thủ tục thu hồi đất (bị nhân dân khiếu
kiện đúng luật) thì bị Công an, Viện kiểm sát huyện Mỹ Đức tạo dựng hồ sơ chứng
cứ giả để bắt giam và truy tố hàng chục người dân vô tôi.
Kính thưa Quý Bà,
10 bị cáo chúng tôi chỉ là số ít trong số rất
nhiều những người nông dân bị mất đất nông nghiệp (tự khai hoang vỡ hóa và canh
tác ổn định từ năm 1988 đến nay) tại thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức;
đến nay UBND TP Hà nội thu hồi để mở đường du lịch tâm linh cho nên đã tác động
vào diện tích đất của người dân chúng tôi. UBND huyện Mỹ Đức và UBND xã Hương
Sơn đã thông đồng với nhau để lấy không công sức của người dân đã khai hoang,
vỡ hóa và canh tác trên thửa đất đó 26 năm nay bằng việc "Người dân sử
dụng đất Công ích cho nên không cần ra quyết định thu hồi đất, không được đền
bù về đất" là vi phạm nghiệm trọng Điều 32 luật đất đai năm 2003; Điều 38
Nghị định 84 của Chính phủ về thu hồi đất công ích để thực hiên dự án...
Thưa Quý Bà!
Từ năm 2008 đến nay Chính quyền địa phương xã
Hương Sơn, huyện Mỹ Đức có hàng loạt các dự án lớn hàng vài trăm tỷ đồng như
đường Đục Khê – Tiên Mai, Sân vận động, đường vào Trường tiểu học Hương Sơn,
các đường liên xã, liên thôn…. Đây đều là các dự án thuộc diện Nhà nước thu hồi
đất theo quy định tại khoản 1 điều 38 Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên hàng loạt
các dự án lớn như vậy nhưng chính quyền địa phương lại lấy đất của dân mà không
có quyết định thu hồi, không có phương án đền bù, bồi thường theo quy định của
pháp luật, khiến cho người dân chúng tôi vô cùng bức xúc và đã phải cầu cứu đến
các cơ quan ngôn luận. Theo báo cáo của Thanh tra TP Hà Nội số 1366/BC-TTTP
ngày 01/7/2011 và theo Thông báo 202/TB-UBND ngày 22/7/2011 của UBND TP Hà Nội
đã chỉ rõ: “… Trong 06 dự án này chỉ có
dự án đường Đục Khê – Tiên Mai là quyết định phê duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh
Hà Tây ngày 31/7/2008; các dự án còn lại mới chỉ có văn bản giao nhiệm vụ cho
chủ đầu tư. Sai phạm đối với dự án đường Đục Khê – Tiên Mai đã được kết luận
tại mục 1.1 nêu trên.
Đối
với 05 dự án còn lại, tuy mới chỉ có văn bản giao nhiệm vụ chủ đầu tư cho Ủy ban
nhân dân xã Hương Sơn nhưng chủ đầu tư không
làm thủ thục thu hôi đất, không lập
phương án bồi thường , giải phóng mặt băng…đã tổ chức thi công dự án là trái
quy định của pháp luật về quản lý đầu tư, xây dựng quản lý đất đai, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư. Trách nhiệm để xảy ra những vi phạm thuộc về Ủy ban nhân
dân huyện Mỹ Đức và Ủy ban nhân dân xã Hương Sơn, nhiệm kỳ 2007 – 2010.” Sai phạm
của chính quyền địa phương đã rõ ràng nhưng xử lý những sai phạm đó như thế
nào thì cho đến nay người dân vân chưa được rõ.
Kính thưa Quý Bà!
Sai phạm lại nối tiếp sai phạm. Trong dự án
đầu tư xây dựng công trình đường nối khu di tích thắng cảnh Hương Sơn đến khu
du lịch Tam Trúc – Khả Phong (Hà Nam), là một dự án có kinh phí gần 200 tỷ đồng
nhưng người dân chúng tôi hoàn toàn không nhận được bất kỳ một quyết định thu
hồi đất nào cũng như quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trong khi ruộng đất của
chúng tôi được giao canh tác ổn định từ năm 1988 đến nay (điều này được khẳng
định trong Báo cáo của UBND xã Hương Sơn số 45/BC-UBND ngày 30/8/2013 ). Khi
nghe tin trên loa đài truyền thanh của xã thông báo về việc đơn vị thi công sẽ
cho xe, máy thi công vào ngày 12/7/2013 với sự có mặt của chính quyền xã, các
ban nghành của huyên và hàng trăm Cảnh sát cùng "xe chuyên dụng, khóa số
tám"; nhưng chúng tôi chỉ là những người dân thường "thấp cổ, bé
họng" có đất canh tác tại khu vực thi công (không ai bảo ai) họ đều cố
gắng đến ruộng đất của mình để xem có bị mất đất hay không và cũng mong được
gặp trực tiếp các cán bộ để giãi bầy, để đòi hỏi quyền lợi chính đáng khi lấy
đất ruộng vốn là miếng cơm, manh áo của người nông dân chúng tôi trong suốt mấy
chục năm qua.
Tuy nhiên, những điều bất công bao giờ cũng
thuộc về người dân khi phải đứng nhìn những chiếc máy xúc, ủi đất đá lên mảnh
đất ruộng của chúng tôi. Nhiều người dân mất đất đã kêu trời và than khóc, có
người bị xô đẩy đến ngất đi và phải đưa đi cấp cứu...họi có mang quan tài ra để
ở ruộng của mình là nhằm phản đối những việc bất công ấy; rồi họ đã bị Công an
huyện Mỹ Đức vu cho đó là hành vi "chống người thi hành công vụ" ngay
lập tức đã bị bắt (khóa tay) đưa lên xe chuyên dụng vào tạm giam.
Câu hỏi đặt ra cho các cơ quan công quyền của
huyện Mỹ Đức phải có trách nhiệm trả lời trước Đảng và Quốc hội đó là: UBND
huyện Mỹ Đức đã làm đúng "công vụ" hay chưa - khi mà họ đang vi phạm
pháp luật nghiêm trọng về quy trình thu hồi đất, về chính sách đền bù GPMB)!?
Vậy, Công an huyện Mỹ Đức dàn hàng trăm quân đến cánh đồng ruộng của dân để bắt
những người dân khiếu nại (kêu oan) để nhằm bảo vệ (che đậy) cho những hành vi
làm trái pháp luật của một số lãnh đạo của UBND huyện có được côi là "cộng
vụ" hay không? Vẫn là một ản số chưa có cơ quan có thẩm quyền nào kết
luận, làm rõ.
Kính thưa Quý Bà!
Các bị cáo chúng tôi "không chống ai
cả", vì chúng tôi luôn ơn Đảng và Bác Hồ đã cho cơm ăn, áo mặc "ruộng
cấy, trâu cầy"; mặc khác, chúng tôi chỉ yêu cầu chính quyền làm đúng và
bảo đảm sự công bằng mà thôi. Chúng tôi chỉ yêu cầu chủ đầu tư (đơn vị thi công)
và UBND phải đền bù thỏa đáng việc làm đó không thể buộc tội chúng tôi "chống
người thi hành công vụ". Những người có trách nhiệm cố ý làm trái pháp
luật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì hành vi đó không
được coi là hành vi công vụ. Ngược lại họ còn bị xử lý trước pháp luật, cho dù
họ là ai? Người nông dân nghèo khó như chúng tôi vân luôn tin vào sự công bằng
của pháp luật, tuy nhiên chúng tôi vô cùng hoang mang và ngỡ ngàng khi nhận
được Bản kết luận Điều tra của Công an huyện Mỹ Đức và Bản cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức đã cố tình quy chụp (ép án, gán tôi) cho chúng
tôi là "Chống người thi hành công vụ" và sắp phải hầu tòa.
Kính thưa Quý Bà!
Sau 8 tháng điều tra với 3 lần bị Tòa án nhân
dân huyện Mỹ Đức trả hồ sơ mà vụ án vẫn chưa xét xử được. Điều đáng nói ở đây
là ngày 28 tháng 02 năm 2014 thì Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội đã đưa
vụ án ra xét xử công khai, nhưng Công an huyện Mỹ Đức lại bố trí hàng trăm cảnh
sát chặn đứng (vòng trong, vòng ngoài) không cho nhân dân vào dư phiên tòa,
không cho các phóng viên (nhà báo) vào tác nghiệp, không có loa đài truyền
thanh ra bên ngoài để nhân dân được nghe… một quần chúng nhân dân thấy vậy lấy
điện thoại quay lại sự việc thì bị Công an huyện Mỹ Đức đóng giả dân thường
xông vào cướp điện thoại rồi chạy thẳng vào trụ sở Công an huyện Mỹ Đức ẩn lấp
người dân chạy theo để đòi lại điện thoại thì được Công an huyện Mỹ Đức chặn
lại ở cổng không cho vào. Như vậy, trụ sở của Công an huyện Mỹ Đức là nơi che
dấu tội phạm cướp giật tài sản công dân? Nhiều người dân đến dư phiên tòa đã
nói nên nhưng câu chua cay, sót sa đó là "Chỉ
có loài Dơi mới sợ ánh sáng; chỉ có nhưng người gian dối mới sợ sự thật mà
thôi"
Theo đề nghị của luật sư và với sự công tâm
của Hội đồng xét xử, cho nên Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức đã quyết định trả hồ
sơ để tiếp tục điều tra làm rõ các nội dung sau:
- Trả hồ sơ để làm rõ việc bị can Lê Thị Thu có bị ép cung dẫn đến tự
sát (dùng Liềm chặt tay) tại phòng hỏi cung của Công an huyện hay không?
Nhân dân chúng tôi thừa nhận và khẳng định rằng khoảng 8h sáng ngày
12/7/2013 chị Lê Thị Thu bị Công an huyện để lấy lời khai cùng một số người
khác (mỗi người một buồng) nhưng sau đó chị Thu đã có thương tích bị chảy rất
nhiều máu ở cổ tay trái và đã được chính những người Công an huyện Mỹ Đức đưa
đến bệnh viện của huyện Mỹ Đức cấp cứu (khâu bốn (04) mũi), đây là sự thật
100%.
- Trả hồ sơ để làm rõ có hay không có những vi phạm hành chính của các
bị can mà Công an huyện Mỹ Đức đã đưa vào hồ sơ vụ án hình sự?
Chúng tôi là những người có quyền lợi trên
đất, có khiếu nại về những sai phạm của UBND xã và huyện nhưng không hề bị gọi
lên lập biên bản vi phạm hành chính bao giờ, cũng chưa khi nào nhận được quyết
định xử phạt vi phạm hành chính của Công an huyện Mỹ Đức, vậy mà trong hồ sơ vụ
án hình sự này họ đã thông đồng với nhau lập ra tài liệu, chứng cứ giả để đưa
vào hồ sơ vụ án hình sư để cố tình buộc tội chúng tôi. Vì vậy mà chúng tôi đã
có đơn cam đoan gửi tới luật sư để nhờ luật sư xem xét giúp đỡ, những đề nghị
của luật sư tại tòa cũng đã được HĐXX chấp thuận trả hồ sơ để làm rõ.
Việc ra lệnh bắt giữ cả vợ và chồng anh Đinh
Văn Chính, chị Lê Thị Thu trong khi anh Chính đang mắc bệnh ung thư máu, còn
chị Thu vừa là người lao động chính để nuôi 03 con nhỏ (con lớn 16 tuổi đang
học lớp 11, con 14 tuổi học lớp 9 và con nhỏ 12 tuổi học lớp 6), vừa là người
chăm sóc chồng là vi phạm Luật chăm sóc, bảo vệ quyền trẻ em, hiện nay cả 03 cháu đều bơ vơ, cháu trai 14 tuổi đã bỏ
học. Toàn bộ tài sản của gia đình anh Chính, chị Thu gồm nhà cửa và trang trại
lợn gần 1.000 con lợn lớn nhỏ để chết dần mòn vì không có người chăm nom là việc
làm sai phạm pháp luật nghiêm trọng của Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện
Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
Chúng tôi không muốn mình giống như những trường
hợp oan sai như ông Hàn Đức Long hay ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang mà báo
đài đang đưa tin. Với một lòng tin vào Đảng, tin vào sự nghiêm minh, công bằng
của pháp luật, chúng tôi làm đơn này tha thiết kính mong quý Ông và các cơ quan
chức năng sớm vào cuộc, điều tra, xác minh sự thật, vạch trần những việc làm
sai trái của chính quyền địa phương UBND huyện Mỹ Đức TP Hà Nội và Công an,
Viện kiểm sát huyện Mỹ Đức để minh oan cho những người nông dân vô tôi như
chúng tôi.
Rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ
quý bà và các cơ quan.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
-------------------------------------------------------------------------------------------------
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Hà Nội, ngày
20 tháng 02 năm 2014
ĐƠN KẾU CỨU
KHẨN CẤP
V/v : Chính quyền địa phương huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội
vi phạm trình tự, thủ tục thu hồi đất; Công an, VKSND, Tòa án nhân dân bắt giam
và truy tố người dân trái pháp luật
Kính gửi
: Bác Nguyễn Bá Thanh – Trưởng ban Nội
Chính Trung Ương
Trước tiên chúng tôi được gửi tới Bác lời chào trân
trọng. Sau đây, chúng tôi xin được trình bày một việc như sau:
Chúng tôi gồm những bị cáo: Nguyễn Thị Tứ, Vương Thị
Sự, Đinh Thị Liên, Phạm Thị Linh, Vương Thị Thảo, Đinh Thị Hưng (tại ngoại) và
người nhà của các bị cáo Đinh Văn Chính, Lê Thị Thu, Trịnh Thị Nhung, Đinh Thị
Hà thường trú tại thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội cùng hàng
trăm những người dân địa phương vô cùng bức xúc trước bản cáo trạng số 81/KSĐT-
VKS-MĐ ngày 02/10/2013 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức.
Kính thưa Bác Thanh! 10 bị cáo chúng tôi chỉ là số ít
trong số rất nhiều những người nông dân bị mất đất canh tác tại thôn Đục Khê,
xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức . Việc chúng tôi bị bắt giam và truy tố như một hành
vi nhằm che đậy đi những việc làm sai trái của chính quyền địa phương huyện Mỹ
Đức trong việc lấy đất canh tác của nông dân chúng tôi mà không có quyết định
thu hồi, không có phương án đền bù thỏa đáng.
Thưa Bác Thanh! từ năm 2008 đến nay chính quyền địa
phương xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức có hàng loạt các dự án như đường Đục Khê –
Tiên Mai, Sân vận động, đường vào Trường tiểu học Hương Sơn, các đường liên xã,
liên thôn…. Đây đều là các dự án thuộc diện Nhà nước thu hồi đất theo quy định
tại khoản 1 điều 38 Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên hàng loạt các dự án như vậy
nhưng chính quyền địa phương lại lấy đất của dân mà không có quyết định thu
hồi, không có phương án đền bù, bồi thường theo quy định của pháp luật, khiến
cho người dân chúng tôi vô cùng bức xúc và đã phải cầu cứu đến các cơ quan ngôn
luận. Theo báo cáo của Thanh tra TP Hà Nội số 1366/BC-TTTP ngày 01/7/2011 và
theo Thông báo 202/TB-UBND ngày 22/7/2011 của UBND TP Hà Nội đã chỉ rõ: “…
Trong 06 dự án này chỉ có dự án đường Đục Khê – Tiên Mai là quyết định phê
duyệt của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây ngày 31/7/2008; các dự án còn lại mới chỉ
có văn bản giao nhiệm vụ cho chủ đầu tư. Sai phạm đối với dự án đường Đục Khê –
Tiên Mai đã được kết luận tại mục 1.1 nêu trên.
Đối với 05 dự án còn lại, tuy mới chỉ có văn bản giao
nhiệm vụ chủ đầu tư cho Ủy ban nhân dân xã Hương Sơn nhưng chủ đầu tư không làm thủ thục thu hôi đất, không lập phương án bồi thường , giải phóng
mặt băng…đã tổ chức thi công dự án là trái quy định của pháp luật về quản lý
đầu tư, xây dựng quản lý đất đai, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trách nhiệm
để xảy ra những vi phạm thuộc về Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức và Ủy ban nhân
dân xã Hương Sơn, nhiệm kỳ 2007 – 2010.” Sai phạm của chính
quyền địa phương đã rõ ràng nhưng xử lý những sai phạm đó như thế nào thì cho
đến nay người dân vân chưa được rõ.
Kính thưa Bác Thanh! Sai phạm lại nối tiếp sai phạm.
Trong dự án đầu tư xây dựng công trình đường nối khu di tích thắng cảnh Hương
Sơn đến khu du lịch Tam Trúc – Khả Phong (Hà Nam), một dự án có kinh phí gần
200 tỷ đồng nhưng người dân chúng tôi hoàn toàn chưa nhận được bất kỳ một quyết
định thu hồi đất nào cũng như quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trong khi ruộng
đất của chúng tôi được giao canh tác ổn định từ năm 1988 đến nay (điều này được
khẳng định trong Báo cáo của UBND xã Hương Sơn số 45/BC-UBND ngày 30/8/2013 ).
Khi nghe tin trên loa đài truyền thanh của xã thông báo về việc đơn vị thi công
sẽ cho xe, máy thi công vào ngày 12/7/2013 với sự có mặt của chính quyền xã,
huyện và các ban nghành, chúng tôi là những người dân có đất canh tác tại khu
vực thi công nên không ai bảo ai đều cố gắng đến ruộng đất của mình để xem có
bị mất đất không và cũng mong được gặp trực tiếp các cán bộ để giãi bầy, để đòi
quyền lợi khi lấy đất ruộng vốn là miếng cơm, manh áo của người nông dân chúng
tôi trong suốt mấy chục năm qua.
Tuy nhiên thật bất công khi phải đứng nhìn những chiếc
máy xúc, ủi đất đá lên mảnh đất ruộng của chúng tôi. Nhiều người dân mất đất đã
kêu trời và than khóc, có người bị xô đẩy đến ngất đi và phải đưa đi cấp cứu.
Việc giữ đất canh tác khi chưa có quyết định thu hồi, chưa có quyết định cưỡng
chế thu hồi của chúng tôi lại bị công an huyện Mỹ Đức cho đó là hành vi chống
người thi hành công vụ. Ba trong số những người có mặt ở đó ngay lập tức đã bị
bắt lên xe đưa đi tạm giam.
Kính thưa Bác Thanh! Các bị cáo chúng tôi không chống
người thi hành công vụ, chúng tôi không có vũ khí, cũng không đánh ai, không
chửi bới ai. Chúng tôi chỉ yêu cầu những nhân viên lái máy ủi của đơn vị thi
công không được đổ đất đá xuống ruộng của chúng tôi, việc làm đó không thể cho
là chống người thi hành công vụ.
Người nông dân nghèo khó như chúng tôi vân luôn tin
vào sự công bằng của pháp luật, tuy nhiên chúng tôi vô cùng hoang mang và ngỡ
ngàng khi nhận được bản cáo trạng số 81/KSĐT-VKS –MĐ ngày 02/10/2013 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức.
Kính thưa Bác Thanh! Bản cáo trạng vô cùng oan khuất
và không đúng thực tế, nhất là bị cáo Đinh Văn Chính. Hôm xảy ra sự việc anh
Chính không có mặt ở hiện trường, anh Chính cũng như các bị cáo chúng tôi hoàn
toàn không bàn bạc hay xúi giục nhau đi
chống người thi hành công vụ. Thế nhưng vẫn bị bắt tạm giam và bị truy tố với
vai trò chủ mưu. Vợ chồng anh Chính, chị Thu có 03 con còn nhỏ, không có người
chăm sóc. Anh Chính lại đang mắc căn bệnh nặng, bệnh ung thư. Tuy nhiên khi gia
đình làm đơn bảo lĩnh cho anh Chính tại ngoại nhưng Công an và Viện kiểm sát
huyện Mỹ Đức hoàn toàn không xem xét. Khiến cho anh Chính bị bệnh mà không được
cứu chữa, còn những đứa trẻ thì bơ vơ không có người chăm sóc. Chị Thu vợ anh
Chính vì quá oan ức đã từng tự tử trong trại giam nhưng rất may đã được cứu
chữa.
Kính thưa quý Ông! Phải chăng cứ bắt giam chúng tôi là
chúng tôi phải có tội ? Chúng tôi không muốn mình giống như trường hợp oan sai
của ông Hàn Đức Long hay ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang mà báo đài đang đưa
tin. Với một lòng tin vào Đảng, tin vào sự nghiêm minh của pháp luật, chúng tôi
làm đơn này tha thiết kính mong quý Ông và các cơ quan chức năng sớm vào cuộc,
điều tra, xác minh sự thật, vạch trần những việc làm sai trái của chính quyền
địa phương, minh oan cho những người nông dân chúng tôi.
Rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ quý Ông và
các cơ quan.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
---------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------
ĐOÀN LUẬT SƯ TP HÀ NỘI
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Độc lập – Tự do
– Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2014
|
LUẬN CỨ CỦA
LUẬT SƯ
“V/v Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Mười (10) bị cáo tại phiên tòa hình sự sơ thẩm do TAND huyện Mỹ
Đức, Hà Nội xét xử vào ngày 28/02/2014”
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố,
Thưa các Luật sư đồng nghiệp,
Thưa quý vị có mặt tại phiên tòa hôm nay.
Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, cùng các luật
sư đồng nghiệp có mặt tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay để nhận trách nhiệm bào
chữa cho vợ chồng ông Đinh Văn Chính, bà Lê Thị Thu cùng các bà Trịnh Thị
Nhung, Nguyễn Thị Tứ, Vương Thị Sự, Đinh Thị Liên, Phạm Thị Linh, Vương Thị
Thảo và Đinh Thị Hưng bị VKSND huyện Mỹ Đức truy tố về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại Điều 257 BLHS.
Theo nội dung Bản cáo trạng số 81/KSĐT-VKS-MĐ
ngày 02/10/2013 của VKSND huyện Mỹ Đức đã kết luận “Ngày 12/7/2013 Đinh Văn Chính, Lê Thị Thu, Trịnh Thị Nhung, Đinh Thị
Hà, Nguyễn Thị Tứ, Vương Thị Sự, Đinh Thị Liên, Phạm Thị Linh, Vương Thị Thảo
và Đinh Thị Hưng là những người không có quyền lợi liên quan đến việc thu hồi
đất đai và giải phóng mặt bằng để thi công tuyến đường nối khu du lịch Hương
Sơn (Hà Nội) với khu du lịch Tam Trúc – Khả Phong (Hà Nam) nhưng đã mượn cớ
việc thu hồi đất đai của nhà nước có hành vi sử dụng quan tài và các chướng
ngại vật khác đứng ra ngăn cản, chống đối không cho các phương tiện và cán bộ
của đơn vị được giao nhiệm vụ thi công vào công trường để thi công công trình,
dẫn đến việc thi công đình trệ, chỉ đến khi cơ quan chức năng bắt giữ đối với
Thu, Nhung và Hà thì sự việc mới dừng lại.
Đây
là vụ án có đồng phạm, trong đó Đinh Văn Chính là người trực tiếp đi mua quan
tài sau đó chỉ đạo Lê Thị Thu (là vợ Chính) mang ra khu vực thi công để cho các
đối tượng khác sử dụng làm công cụ chống người thi hành công vụ, ngoài ra Chính
còn có lời nói kích động, xúi giục người khác phạm tội.
Đối
với Lê Thị Thu, Trịnh Thị Nhung, Đinh Thị Hà, Nguyễn Thị Tứ, Vương Thị Sự, Đinh
Thị Liên, Phạm Thị Linh, Vương Thị Thảo và Đinh Thị Hưng là những người thực hành
tích cực, trực tiếp có hành vi cản trở, chống đối những người thi hành công
vụ”.
Do đó, Cáo trạng đã quyết định truy tố ông
Đinh Văn Chính theo điểm c khoản 2 Điều 257 BLHS, bà Lê Thị Thu và các bị cáo
khác theo khoản 1 Điều 257 BLHS về tội “chống người thi hành công vụ”.
Thưa Hội đồng xét xử!
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét các
hành vi của mười (10) người dân mà Quí Viện cho là họ đã có hành vi "chống người thi hành công vụ";
và hành vi của "lực lượng thi công,
cùng lực lượng bảo vệ thi công" mà Quí viện cho rằng những người này
là "người đang thi hành công
vụ"; chúng tôi nhận thấy cả hai cơ quan (điều tra và truy tố) đã nhầm
lẫn nghiêm trọng trong nhận định hành vi của những người được cho rằng đang thực
hiện công vụ để rồi buộc tội 10 người dân trong vụ án này. Bởi chỉ khi nào
những người thi hành công vụ đã làm đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy
định nhưng bị người khác cản trở không cho làm hoặc ép buộc họ phải làm trái
pháp luật thì mới xuất hiện tội phạm chống người thi hành công vụ.
Qua quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ
án, sau kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, chúng tôi đã
lắng nghe phần luận tội và đề nghị mức án hình phạt đối với từng bị cáo mà Quí
Viện đã đưa ra; với trách nhiệm là luật sư bào chữa, tôi cho rằng có đủ cơ sở
để chứng minh rằng quan điểm của Quí Viền về vụ án này là hoàn toàn không có
căn cứ cả về phương diện pháp lý lẫn phương diện thực tiễn vụ án. Nói cách khác
Cơ quan Điều tra và Cơ quan Truy tố của huyện Mỹ Đức đã hình sự hóa các quan hệ
pháp luật hành chính có liên quan đến việc thu hồi đất nông nghiệp - công ích
tại xã Hương Sơn để giao cho dự án xây dựng đường nối khu du lịch thắng cảnh
Hương Sơn (Hà Nội) đến khu du lịch Tam Chúc - Khả Phong (Hà Nam), bởi các căn
cứ sau đây:
A.
Thứ nhất, xét về phương diện pháp lý:
- Đối với "Tội chống người thi hành công
vụ":
Trong cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 257
BLHS đã quy định: Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn
khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ
thực hiện hành vi trái pháp luật thì bị xử lý theo Điều 257 BLHS.
Như vậy, muốn chứng minh hành vi bị coi là "Chống người thi hành công vụ"
bắt buộc chúng ta phải phân biệt rõ hành vi nào được xem là đang thi hành công
vụ và hành vi nào là hành trái pháp luật trong khi thi hành công vụ; bởi nếu là
hành vi nhân danh công vụ nhưng trái pháp luật thì không được xem là đang thực
hiện công vụ; và hành vi của những người ngăn cản, chống lại những người thi
hành công vụ trái pháp luật sẽ không bị xem xét quy buộc vào tội “chống người thi hành công vụ”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định
208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ "Quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi
chống người thi hành công vụ" (sau
đay gọi tắt là Nghị định 208 của Chính phủ) thì "Người thi hành công vụ là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan,
hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà
nước, nhân dân và xã hội".
Bên cạnh đó tại điểm a, khoản 1 Điều 5 của
Nghị định 208 nêu trên cũng nghiêm cấm những người thi hành công vụ "Vi phạm trình tự, thủ tục, thẩm quyền
trong khi thi hành công vụ". Pháp luật quy định như vậy, để buộc những
người thi hành công vụ phải có nghĩa vụ tuân thủ về thẩm quyền, tuân thủ về quy
trình và thủ tục. Nếu người thi hành công vụ không tuân thủ là vi phạm vào điều
cấm thì hành vi công vụ đó sẽ bị coi là không hợp pháp, là trái pháp luật; một
hành vi công vụ trái pháp luật cho dù họ là ai cũng không được pháp luật bảo vệ
và hành vi đó không được coi là hành vi công vụ.
Kính thưa HĐXX!
Trong vụ án này có liên quan đến quyền lợi
của 9 hộ dân đang sử dụng đất bị thu hồi để giao đât cho dự án. Vì vậy tôi xin
viện dẫn một số căn cứ pháp luật về quản lý và sử dụng đất để Quí Viện và HĐXX
xem xét. Bởi chỉ có đặt quyền lợi của các hộ dân dưới lăng kính pháp luật đất
đai để xem xét thì mới đánh giá được một cách toàn diện những hành vi của họ có
vi phạm pháp luật hình sự hay không.
- Tại khoản 5 và khoản 6 Điều 105 Luật Đất
đai 2003 đã quy định người sử dụng đất “Được
nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng của mình";
được "Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi
khác vi phạm pháp luật về đất đai”.
- Điều 32 Luật Đất đai năm 2003 cũng quy định
“Việc quyết định giao đất, cho thuê đất
đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có
quyết định thu hồi đất đó”.
- Việc thu hồi quỹ đất công ích Điều 38 Nghị
định 84 ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định như sau “UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công
ích của xã, phường, thị trấn để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp theo quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”.
Pháp luật quy định như vậy có nghĩa, trong
mọi trường hợp cho dù là đất giao cho hộ gia đình, cá nhân hay đất công ích
đang có người sử dụng muốn giao cho người khác sử dụng hay để thực hiện dự án
đầu tư thì bắt buộc UBND cấp huyện đều phải ra quyết định thu hồi đất đó. Việc
không ra quyết định thu hồi đất kể cả trong trường hợp đối với người sử dụng
đất bất hợp pháp (sử dụng do lấn chiếm...) cũng đều là thiếu xót trái pháp luật
của chính quyền địa phương.
B.
Thứ hai, xét về phương diện thực tiễn vụ án này:
Kính thưa HĐXX!
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Chúng tôi nhận thấy Cơ quan điều tra, Cơ quan
truy tố đã vi phạm nghiêm trọng Điều 10 Bộ luật TTHS vì đã không xem xét, đánh
giá vụ án một cách khác quan, toàn diện, và đầy đủ, để làm rõ các chứng cứ xác
định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
I. Những vi phạm tố tụng nghiêm trọng của
CQĐT:
Để chính minh, làm rõ đến tận cùng sự thật
của vụ án, trước tiên chúng tôi xin trình bầy về những vi phạm tố tụng nghiêm
trọng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Đức khi thu thập tài liệu, chứng cứ
để buộc tội các bị cáo và những vi phạm tố tụng này dẫn đến nguy cơ buộc tội
theo chiều hướng bất lợi cho các bị cáo.
I.1)
Có dấu hiệu bức cung đối với bị can Lê Thị Thu:
Theo trình bầy tại phiên tòa sơ thẩm, cũng
như tại Biên bản làm việc ngày 23/12/2013 mà chúng tôi đã nộp cho HĐXX, bà Lê
Thị Thu đều khẳng định: "Vào khoảng 8h00’ ngày 12/72013 thì tôi
(Thu) bị bắt lên Công an huyên Mỹ Đức để lấy lời khai do hai (02) anh công an
mặc áo thường phục hỏi ép tôi phải khai ra chồng tôi là Đinh Văn Chính đã xai
tôi đi mua quan tài; nhưng tôi không khai vì chồng tôi không tham gia nên tôi
không khai. Người trực tiếp hỏi tôi đã đấm liên tiếp vào mặt tôi hai (02)
nhát làm tôi tối tăm mặt và bị choáng,
bị uất ức quá nên tôi đã cầm chiếc Liềm cắt cỏ
ở trong túi xách cùng 02 (hai) chai nước uống đi làm đồng ra và tôi tự
sát tại phòng hỏi cung của Công an huyện".
Mặc dù bà Thu đã làm đơn đề nghị được đi giám
định thương tích để chứng minh việc bà Thu cầm Liềm cắt cổ tay để phản đối việc
cán bộ điều tra đã đe dọa, dụ dỗ và ép cung đối với bà Thu là có căn cứ, nhưng
cho đến nay vẫn chưa được cơ quan nào đứng ra giải quyết. Vì vậy, tại phiên tòa
hôm nay đề nghị HĐXX cần làm rõ vấn đề này để bảo đảm quyền lợi của bà Thu.
I.2)
Có dấu hiệu về việc lập chứng cứ giả để làm sai lệch hồ sơ vụ án:
- Theo Văn bản giao quyền xử phạt vi phạm
hành chính số 01/GQ ngày 28/8/2013 giữa ông Nguyễn Công Bộ (Trưởng công an
huyện Mỹ Đức) giao quyền cho ông Lê Xuân Văn ra quyết định xử phạt hành chính
từ ngày 28/8/2013 đến ngày 03/9/2013 ( BL 439).
Vấn đề đáng nói là, thời hạn mà ông Nguyễn
Công Bộ ủy quyền cho ông Lê Xuân Văn được quyền xử phạt hành chính đã chấm dứt hiệu
lực vào ngày 03/9/2013; thế nhưng vào ngày 28/9/2013 (tức là sau khi đã hết
thời hạn ủy quyền 25 ngày) ông Lê Xuân Văn vẫn ký tới mười ba (13) quyết định
xử phạt vi phạm hành chính được thể hiện tại các Bút lục từ số 440 đến số 451 để
hợp thức hóa vào hồ sơ vụ án là hành vi lạm quyền, vượt quá thẩm quyền mà pháp
luật cho phép.
- Ngoài ra còn có những dấu hiệu rõ ràng cho
thấy việc lập hồ sơ giả trong vụ án, cụ thể:
Một là, toàn bộ các quyết định xử phạt vi
phạm hành chính mà ông Lê Xuân Văn đã ký đều không có giá trị pháp lý, bởi thời
hạn ủy quyền cho ông Lê Xuân văn đã hết;
Hai là, toàn bộ những người bị xử phạt vi
phạm hành chính đều có đơn gửi chúng tôi để khẳng định "Họ không hề bị Công an xã Hương Sơn, Ban quản lý dự án, Công an
Đồn Hương Sơn lập biên bản vi phạm hành chính" và quan trọng hơn cả là
họ không nhận được bất cứ một quyết định xử phạt hành chính nào của Công an
huyện Mỹ Đức.
Ba là, toàn bộ các Biên bản vi phạm hành
chính (từ BL 377, 384); trong đó có hai Biên bản lập ngày 10/4/2013 và
11/4/2013 chỉ khác ở thời gian, còn lại giống nhau từ dấu chấm, dấu phẩy, giống
nhau từng câu, từng chữ là một điều đáng ngờ về tính khách quan của các văn bản
(Bút lục 383, 384).
Từ những bằng chứng nêu trên cho thấy có dấu
hiệu về việc lập chứng cứ giả, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án để hợp thức hóa
cho hành vi vi phạm pháp luật của Công an huyện Mỹ Đức cần phải được làm rõ tại
phiên sơ thẩm tòa hôm nay.
II. Những sai lầm của Cơ quan điều tra, Truy
tố khi đánh giá chứng cứ hồ sơ vụ án:
Theo quy định của Bộ luật TTHS thì chứng cứ
là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định; mỗi chứng cứ phải được đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ phải bảo đảm
ba thuộc tính đó là tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan đến vụ án.
Trong vụ án này muốn chứng minh buộc tội các
bị cáo phải bắt đầu xem xét đánh giá trách nhiệm công vụ của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến trách nhiệm công vụ để đánh giá xem họ đã thực
hiện đúng quy định của pháp luật hay chưa.
Vì vậy, luật sư chúng tôi xin phép được phân
tích các tài liệu, chứng cứ đang có trong hồ sơ vụ án để làm rõ trách nhiệm
công vụ của tổ chức, cá nhân mà họ đã thực hiện trong vụ án này.
II.1)
Trách nhiệm quản lý Nhà nước về đất đai của UBND huyện Mỹ Đức khi thực hiện dự
án xây dựng đường nối khu du lịch thắng cảnh Hương Sơn (Hà Nội) đến khu du lịch
Tam Chúc - Khả Phong (Hà Nam ):
Căn cứ Điều 32 Luật Đất đai năm 2003; Điều 38
Nghị định 84 của Chính phủ mà chúng tôi viện dẫn ở trên; và căn cứ vào Quyết
định số 5827/QĐ-UBND ngày 15/12/2013 của UBND TP Hà Nội (sau đay gọi tắt là Quyết
định số 5827 của UBND TP) về việc thu hồi tổng thể 149.493,29m2 đất
tại xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức để giao cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực
hiện dự án xây dựng đường nối khu thắng cảnh Hương Sơn (Hà Nội) đến khu du lịch
Tam Chúc - Khả Phong (Hà Nam) thì trách nhiệm của UBND huyện Mỹ Đức phải ban
hành các quyết định thu hồi những phần diện tích đất công ích mà chín (09) hộ
dân cụ thể là 10 bị cáo đang sử dụng để giao cho dự án. Nhưng thực tế UBND
huyện Mỹ Đức không thực hiện trách nhiệm được giao để ban hành các quyết định
thu hồi đất đến từng hộ đang sử dụng đất "công
ích" là trái với các quy định của pháp luật mà luật sư chúng tôi đã
viện dận ở phần trên.
Căn cứ Bút lục số 100 (từ dòng 1 đến dòng 3
phần cuối trang 1) có trong hồ sơ vụ án là Quyết định số 2290/QĐ-UBND ngày
16/10/2012 của UBND huyện Mỹ Đức (sau đây gọi tắt là Quyết định 2291 của UBND
huyện Mỹ Đức) về việc giải quyết khiếu nại của ông Đinh Văn Chính; trong quyết
định này UBND huyện Mỹ Đức lại cho rằng: "...Phần
quĩ đất công ích trồng cây hàng năm do UBND xã Hương Sơn quản lý không được bồi
thường về đất, chỉ được hỗ trợ về cây cối, hoa màu, tài sản trên đất nên không
có quyết định thu hồi đất riêng..." .
Từ hai tài liệu nêu trên cho thấy UBND huyện
Mỹ Đức đã có hai hành vi sai phạm liên quan đến đến trách công vụ của cơ quan
nhà nước trong việc quản lý đất đai tại địa phương, hai sai phạm đó là:
- Không ban hành quyết định thu hồi đất mà
pháp luật buộc UBND cấp huyện phải làm;
- Thứ hai là đã ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại trái pháp luật cả về nội dung và thẩm quyền, vì tại Điều 18 của
Luật Khiếu nai thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc trách nhiệm
của Chủ tịch UBND huyện - không thuộc thẩm quyền của giải quyết của UBND; về nội dung đã không căn cứ vào khoản 1 Điều
29 Bản Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn TP Hà Nội-Kèm theo Quyết định 108/2009/QĐ-UBND ngày 29/9/2009 của
UBND TP Hà Nội (sau đây gọi tắt là Quyết định số 108 của UBND TP Hà Nội) để
giải quyết đơn, vì khoản 1 Điều 29 đã quy định Hộ gia đình, cá nhân thuê, nhận
đấu thầu sử dụng quỹ đất công ích của xã, phường thì được nhận chi phí đầu tư
vào đất còn lại hoặc được hỗ trợ tối đa không quá 10% mức bồi thường giá đất
nông nghiệp được công bố hằng năm.
II.2).
Cần xem xét, nhận định rõ hành vi thi công của lực lượng thi công, xây dựng công
trình theo dự án xây dựng đường nối khu du lịch thắng cảnh Hương Sơn (Hà Nội)
đến khu du lịch Tam Chúc - Khả Phong (Hà Nam) có hợp pháp – có phải là hành vi
công vụ hay không:
Căn cứ Bút lục số 99 có trong hồ sơ vụ án là
Quyết định số 5827 của UBND TP Hà Nội, thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với
tránh nhiệm là chủ đầu tư nên được UBND TP Hà Nội giao cho bốn (04) nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
"1)
Liên hệ với UBND huyện Mỹ Đức để thực hiện giải phóng mặt bằng đối với diện
tích đất do UBND xã Hương Sơn quản lý; thực hiện dự án theo đúng nội dung quy
định tại Điều 1 quyết định này;
2)
Sau khi thực hiện xong khoản 1, liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường để được
nhận bàn giao đất trên bản đồ và ngoài thực địa;
3)
Thực hiện dự án đầu tư theo đúng quy định của pháp luật, đúng tiến độ, đúng mục
đích, ranh giới, diện tích xác định tại Điều 1 của quyết định này;
4)
Chỉ được xây dựng công trình sau khi hoàn thành nghĩa vụ quy định tại khoản 1
của Điều này".
Trên thực tế khi thực hiện dự án, mặc dù UBND
huyện Mỹ Đức không ban hành các quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân đang sử
dụng phần đất có dự án đi qua. Cụ thể là giữa UBND huyện Mỹ Đức và Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch chưa thực hiện xong nhiệm vụ mà UBND TP Hà Nội giao cho tại
Điều 1 Quyết định số 5827 nhưng đã cho lực lương thi công tiến hành san lấp,
giải phóng mặt bằng là vi phạm nghiêm trọng quy định Mục 4 Điều 2 Quyết định số
5827 của UBND TP Hà Nội mà chúng tôi vừa viện dẫn ở trên; đồng thời còn vi phạm
nghiêm trọng điểm a, khoản 1 Điều 5 của Nghị định số 208 của Chính phủ về việc
nghiêm cấm những người thi hành công vụ "vi
phạm trình tự, thủ tục, thẩm quyền trong khi thi hành công vụ".
Như vậy, đủ căn cứ vững chắc để két luận rằng
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã không thực hiện đúng nhiệm vụ mà UBND TP Hà
Nội đã giao tại Điều 2 Quyết định số 5827 của UBND TP Hà Nội nhưng vẫn tổ chức
cho lực lượng thi công xây dựng công trình theo dự án, hành vi đó là vi phạm
nghiêm trọng về trình tự, thủ tục thu hồi đất mà pháp luật đã quy định và nhiệm
vụ đã được UBND thành phố Hà Nội giao cho. Hành vi tùy tiện, không tuân thủ
mệnh lệnh hành chính của cấp trên của các cán bộ nhân danh chủ đầu tư là Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch để làm trái pháp luật xâm hại đến quyền lợi của người
khác, thi không được xem hành vi trái pháp luật đó là hành công vụ và không
được pháp luật bảo vệ.
II.3)
Cần xem xét, làm rõ các hành vi của lực lượng Công an huyện Mỹ Đức đến để "Bảo vệ thi Công" có phải hành vi
công vụ hay không:
Căn cứ các Bút lục số 35 đến 37 có trong hồ
sơ vụ án là "Phương án bảo vệ thi
công thực hiện dư án Đường nối khu du lịch thắng cảnh Hương Sơn - Mỹ Đức - TP
Hà Nội đến khu du lịch Tam Chúc - Khả Phong (Kim Bảng - Hà Nam)" do ông Nguyễn Công Bộ, Đại tá, Trưởng Công an
huyện Mỹ Đức đã ký ngày 28/5/2013 để giao nhiệm vụ cho hơn một trăm (103) cán
bộ, chiến sỹ Công an huyện Mỹ Đức đến tham gia bảo vệ thi công đã cho thấy có
rất nhiều sai phạm pháp luật. Căn cứ mà luật sư chúng tôi đưa ra là:
- Trang đầu 1, trong phần căn cứ thứ nhất có
nêu: "Căn cứ quyết định 827 QĐ-UBND
ngày 15 tháng 12 năm 2011 của UBND TP Hà nội. Về việc thu hồi 149.439,29m2
đất tại xã Hương Sơn -Mỹ Đức, Hà Nội do UBND xã Hương Sơn đang quản lý và 27
quyết định từ số 820/QĐ-UBND đến số 846/QĐ-UBND ngày 20 tháng 4 năm 2011 của
UBND huyện Mỹ Đức về việc thu hồi 19.025,71 m2 đất nông nghiệp giao theo Nghị
định 64/CP - quỹ đất I, giao 168,464m2 đất tại xã Hương Sơn - Mỹ Đức
- TP Hà Nội cho Sở VHTT&DL để thực hiện dự án đường nối khu du lịch thắng
cảnh Hương Sơn đến khu du lịch Tam Chúc - Khả Phong (Kim Bảng - Hà Nam) lý
trình km0 đến km4 + 400 huyện Mỹ Đức - TP Hà Nội".
Về nội dung này luật sư chúng tôi thấy hai
sai phạm sau:
Thứ nhất, UBND TP Hà Nội không hề ban hành
quyết định số 827 như căn cứ trên đã nêu; UBND TP Hà Nội chỉ ban hành Quyết
định số 5827/QĐ-UBND ngày 15/12/2013 về việc thu hồi 149.493,29m2
đất tại xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức; mặt khác, việc Công an huyện Mỹ Đức sử dụng
27 quyết định của UBND huyện Mỹ Đức về việc thu hồi 19.025,71 m2 đất
quỹ I sản xuất nông nghiệp giao theo Nghị định 64/CP để làm căn cứ xây dựng
phương án bảo vệ thi công là không có căn cứ pháp luật, bởi lẽ các bị cáo trong
vụ án này đang thắc mắc và bảo vệ quyền lợi của mình trên phần đất mà họ đã
được HTX nông nghiệp giao cho cùng những diện tích mà đã khai hoang, vỡ hóa
thêm từ những năm 1988 đã được tại Bút lục số 105 có trong hồ sơ vụ án là Báo
cáo số 45/BC-UBND ngày 30/8/2013 của UBND xã Hương Sơn (đang có trong hồ sơ vụ
án). Vì vậy, việc Công an huyện Mỹ Đức sử dụng 27 quyết định thu hồi đất nông
nghiệp quỹ I để làm căn cứ bảo vệ thi công trên phần đất công ích (hai loại đất
hoàn toàn khác nhau) là việc làm không bình thường.
Thứ hai, tại đoạn hai trong phần căn cứ, Công
an huyện Mỹ Đức còn căn cứ vào Quyết định số 1501/2008/QĐ-BCA ngày 10/9/2008
của Bộ trưởng Bộ công an ban hành về quy trình hỗ trợ, cưỡng chế thi hành án
Hình sư của lực lượng Cảnh sát Bảo vệ và Hỗ trợ tư pháp thuộc công an nhân dân (sau
đây gọi tắt là Quyết định 1501 của Bộ công an) để lập Phương án bảo vệ thi công
cho nhà thầu cũng là việc làm không bình thường.
Bới, Quyết định số 1501 của Bộ trưởng Bộ Công
an nêu trên chỉ quy định về trình tự và các bước thực hiện nhiệm vụ của lực
lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân trong hoạt động
hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sư (khi có yêu cầu của cơ quan thi hành án dân
sự thì lực lượng này mới được tham gia. Điều đáng nói ở đây là trong 11 Điều
của Bản quy trình này không có bất cứ nội dung điều khoản nào cho phép lực
lương công an nhân dân được phép tham gia bảo vệ thi công. Câu hỏi đặt ra ở đây
là, Công an huyện Mỹ Đức áp dụng pháp luật không có căn cứ có được coi là hành
vi công vụ hay không, chúng tôi đề nghị HĐXX và Viện kiểm sát cần làm rõ tại
phiên tòa hôm nay.
Chưa hết, bởi trong phương án bảo vệ thi công
- phần phần đề xuất, kiến nghị với UBND là "Ra
quyết định cưỡng chế GPMB để công tác tổ chức thực hiện đạt kết quả. Đảm bảo
đúng quy trình pháp luật". Nhưng trên thực tế cũng như các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã phản ánh cho luật sư chúng tôi đọc thì không có
bất cứ quyết định cưỡng chế BTGPMB đối với các thân chủ của chúng tôi. Quyết
định cưỡng chế thu hồi đất là một quy trình (bắt buộc) được quy định tại Điều
32 Nghị định 69/2009 của Chính phủ và Điều 70 Quyết định số 108 của UBND TP Hà
Nội. Vậy mà, ông Nguyễn Văn Bộ vẫn nhân danh Thủ trưởng cơ quan Công an huyện
Mỹ Đức giao nhiệm vụ cho các nhân viên dưới quyền cùng các công cụ hỗ trợ đến
dự án để bảo vệ thi công là hành vi trái pháp luật.
Tóm
lại: Phương án bảo vệ thi
công của Công an huyện Mỹ Đức một phương án không có căn cứ pháp luật, lại được
thực hiện để bảo vệ cho những hành vi trái pháp luật khác của UBND huyện Mỹ
Đức; của chủ đầu tư (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mà trực tiếp là lực lượng
thi công. Vì vậy, các hành vi đó không được coi là hành vi công vụ, cho dù họ
là ai cũng không được pháp luật bảo vệ. Đó mới là bản chất dân chủ, bình đẳng trước
pháp luật của nền pháp chế XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân chúng ta đang xây
dựng.
II.4)
Cần phải xem xét, làm rõ có hay không có quyền lợi của các bị cáo liên quan đến
việc thu hồi đất và việc khiếu nại, của họ.
- Căn cứ Bút lục số 105 có trong hồ sơ vụ án
là Báo cáo số 45/BC-UBND ngày 30/8/2013 của UBND xã Hương Sơn tại Mục 3 đã ghi
rõ: "Về quĩ đất công của các hộ gia
đình, cá nhân có diện tích cấy ngoài tại khu vực Bãi Đốt, An Ngựa và Thong Giác
là đất nằm ngoài vùng đê bao, thuộc loại đất xấu, xình lầy, xa khu dân cư, chưa
có công trình thủy lợi, thuộc quĩ đất công do UBND xã quản lý; HTX nông nghiệp
đã giao khoán thẳng từ năm 1988 cho các hộ gia đình để sản xuất nông nghiệp. Từ
đó đến nay các hộ gia đình đều tổ chức sản xuất và đóng góp cho tập thể đúng
quy định".
- Căn cứ Bút lục số 100 (từ dòng 9 đến dòng
16 - từ dưới lên) có trong hồ sơ vụ án là Quyết định số 2290 của UBND huyện Mỹ
Đức về việc giải quyết khiếu nại của ông Đinh Văn Chính cũng xác định: "... Diện tích 240m2 đất tại
xứ đồng Bãi Đốt, xã Hương Sơn, nguồn gốc là đất nông nghiệp được HTX nông
nghiệp xã Hương Sơn đã giao cho gia đình ông Chính sử dụng từ năm 1988, đến năm
1994 gia đình ông chính không sử dụng đã giao lại cho gia đình ông Trịnh Văn
Định sử dụng sản xuất nông nghiệp (nhưng không có văn bản bàn giao), cho đến
khi thu hồi đất vào thực hiện dự án; là đất nằm ngoài vùng đê bao thuộc loại
đất xình lầy, đất xấu, là đất công ích nằm trong tổng diện tích quỹ đất công do
UBND xã Hương Sơn quản lý. Hiện trạng đo đạc tại thời điểm giải phóng mặt bằng
là 1024,12m2 (do gia đình ông Chính tự xản xuất thêm 784,12m2)”.
Với những tài liệu trên cho thấy kể từ năm
1988, gia đình ông Chính đã sử dụng để sản xuất nông nghiệp với diện tích đất
1024,12m2, trong đó có 240m2 do HTX giao và 784,12m2
do gia đình ông Chính tự khai hoang, vỡ hóa thêm; việc sử dụng đất của gia đình ông Chính là
phù hợp với Điều 2 Luật Đất đai 1987; Điều 5 Luật Đất đai 1993; và khoản 2 Điều
12 Luật đất đai năm 2003 vì Nhà nước luôn khuyến khích việc khai hoang, vỡ hóa
để mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản
và làm muối.
Vì vậy, những công sức các bị cáo trong vụ án
đã bỏ ra để khai hoang, vỡ hóa, cải tạo đất nằm ngoài vùng đê bao, thuộc loại
đất xấu, xình lầy, xa khu dân cư, chưa có công trình thủy lợi để tự sản xuất
nông nghiệp đó chính là "thành quả
lao động, kết quả đầu tư trên đất", là quyền lợi hợp pháp của bị cáo
đã được pháp luật thừa nhận tại khoản 2 Điều 105 Luật đất đai năm 2003 và đoạn
2 khoản 1 Điều 29 Quyết định số 108 của UBND TP Hà Nội mà chúng tôi vừa viện
dẫn ở phần trên.
Vậy mà Tại Bút lục 481 trang 4 của Bản Cáo
trạng Quí Viện lại cho rằng các bị cáo trong vụ án này “(...) là những người không có quyền lợi liên quan đến việc thu hồi đất
đai và giải phóng mặt bằng để thi công tuyến đường nối khu du lịch Hương Sơn
(Hà Nội) với khu du lịch Tam Trúc – Khả Phong (Hà Nam)...” là một kết luận
hoàn toàn suy diễn chủ quan; không căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án, kết luận như vậy là trái với các quy định của pháp luật hiện hành mà
chúng tôi đã viện dẫn ở trên.
II.5)
Vậy có hay không có các hành vi chống người thi hành công vụ của các bị cáo
trong vụ án này:
Như chúng tôi đã chứng minh, phân tích và dẫn
chiếu các điều luật có liên quan đến trách nhiệm của UBND huyện Mỹ Đức, của Chủ
đầu tư (lực lượng thi công) cũng như lực lượng bảo vệ thi công của Công an
huyện Mỹ Đức ở các phần trên đã cho thấy những người thực hiện công vụ trong vụ
án này chẳng những không làm đúng trách nhiệm công vụ mà pháp luật giao cho họ;
ngược lại họ còn lạm dụng vào chức trách nhiệm vụ được giao để làm trái các quy
định của pháp luật, gây bức xúc dư luận là lòng tin của nhân dân với chính
quyền; chính họ mới là người xâm hại tới sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà
nước.
Một hành vi công vụ mà lạm quyền, xâm hại đến
sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, xâm hại đến quyền và lợi ích của
người khác thì các hành vi đó chẳng những phải bị xử lý thỏa đáng, mà còn bị xã
hội nên án.
Xuất phát từ thực trạng chính quyền địa
phương làm sai, bị người dân khiếu nại về đất đai nhưng không tiếp thu để chịu
sửa chữa, không quan tâm giải quyết thỏa đáng, lại cho rằng người dân chống đối
nên đã dùng biện pháp "áp chế" người dân "con run xéo mãi cũng
quằng" cho nên những người dân địa phương và các bị cáo trong vụ án này họ
coi như vào đường cùng nên họ phản ứng bằng việc sử dụng quan tài hay đứng ra
ngăn cản không cho các phương tiện của đơn vị thi công xâm hại đến quyền lợi
của họ, đó chính là "thông điệp" để thu hút sự quan tâm của chính
quyền và công luận xã hội phải lưu tâm giải quyết cho quyền lợi của họ mà thôi.
Một hành vi ngăn chặn, chống lại tương xứng với những sai trái pháp luật, nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng hợp pháp của chính mình và của người khác chính là
hành vi phòng vệ, điều này đã được pháp luật hình sự Việt Nam thừa nhận tại
Điều 15 Bộ luật hình sự hiện hành.
Đối với người dân chỉ có tiếng nói, không có
quyền hành gì thì đó là cách phản kháng cuối cùng, cần thiết để yêu cầu những
người đang thực hiện nhiệm vụ trái pháp luật kia phải cảnh tỉnh nhìn lại các
hành vi ứng xử của minh trước pháp luật và trước phiên tòa hôm nay.
Mặt khác các hành vi ngụy tạo chứng cứ giả,
và ép cung để làm sai lệch hồ sơ vụ án nhằm hình sự hóa các quan hệ pháp luật
hành chính, để buộc tội người không có hành vị tội phạm, cũng là hành vi xâm
phạm hoạt động tư pháp trong vụ án này. Các luật sư chúng tôi đề nghị HĐXX cần
xem xét làm rõ tại phiên tòa hôm nay.
C) Đề
nghị của luật sư:
Với các nội dung phân tích và viện dẫn các
tại liệu, chứng cứ có thật, khách quan có trong hồ sơ vụ án; cùng với việc tham
chiếu các điều luật hiện hành mà chúng tôi đã nêu ở các phần trên; luật sư
chúng tôi trân trọng đề nghị với Quí HĐXX Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức hướng
giải quyết vụ án như sau:
Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 227 Bộ luật
Tố tụng hình sự tuyên bố 10 (mười) bị cáo có mặt tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay
không có tội và trả tự do cho các bị cáo Đinh Văn Chính, Lê Thị Thu, Đinh Thị
Hà và Trịnh Thị Nhung đang bị tạm giam trái pháp luật.
Chúng tôi tin tưởng rằng, quan điểm pháp lý
về vụ án mà chúng tôi đưa ra là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành sẽ được Quí HĐXX chấp nhận!
Xin trân trọng cảm ơn!
Luật
sư bào chữa
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét