Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Công dân tỉnh Bình Dương tố cáo quan chức tỉnh.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________________________
ĐƠN TỐ CÁO
Đối với ông Lê Thanh Cung - Chủ tịch
và ông Trần Văn Nam - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương.
________________________________ 
Kính gởi: Thủ tướng chính phủ.

                I.   Người tố cáo:
v   Nguyễn Văn Tốt, nơi Đăng ký Hộ khẩu thường trú: Tổ 4 Khu phố 7 thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
v   Địa chỉ liên hệ: ấp Bình Cơ, xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
v   Điện thoại: 0917.246.672
         II.       Ngừơi bị tố cáo.
1.           Ông Lê Thanh Cung - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương
2.           Ông Trần Văn Nam - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương. (Ông Nam nguyên là Bí thư Huyện ủy Tân Uyên).
     III.       Nội  dung tố cáo.
Ông Lê Thanh Cung và ông Trần Văn Nam đã dối trá, bịa đặt, cố ý bóp méo sự thật trong giải quyết tố cáo để bảo kê, bao che khi UBND huyện Tân Uyên và UBND xã Hội Nghĩa cố ý thách thức pháp luật trong quản lý đất đai:
(1)  03 lần lập hồ sơ khống để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây xin gọi tắt là sổ đỏ) cho bà Đỗ Thị Thu ngụ tại ấp Bình Quới, xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An (nay là phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An) tỉnh Bình Dương. Thực tế bà Thu không sử dụng đất và không có cơ sở pháp lý để sử dụng đất.
(2)  Không cấp sổ đỏ cho tôi khi tôi là người sử dụng đất liên tục, ổn định và đủ điều kiện được cấp;
đối với 43.670m2 đất thuộc thửa 28 tờ bản đồ 17 (lô K3 cũ) tọa lạc tại ấp 1 xã Hội Nghĩa tôi đã và đang sử dụng trên 20 năm nay (từ tháng 6/1992 đến nay).
Trong chiến tranh chống Mỹ tôi là Chiến binh cầm súng theo Đảng, nhưng trong hòa bình hiện nay tôi lại là Nạn nhân bị cướp đất khi chính quyền 03 cấp tỉnh- huyện-xã tại Bình Dương cùng dối trá, bịa đặt, bóp méo sự thật và bẻ cong pháp luật. Tôi đã nhiều lần có đơn tố cáo, khiếu nại, sự việc cũng đã được báo chí nhiều lần phản ánh nhưng chính quyển 03 cấp ở địa phương vẫn cố tình nhắm mắt trước sự thật, bịt tai trước công luận tiếp tục dối trá bịa đặt, cố ý bóp méo sự thật, không chỉ thách thức pháp luật mà còn thẳng tay ném của Nghị quyết TW 4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”  vào thùng rác.
Cụ thể:
Báo Người cao tuổi:
-  Số 28 phát hành ngày 27/3/2012 có bài; “Tỉnh Bình Dương: Hệ lụy từ hợp đồng thuê đất trái luật”
-  Số 96 phát hành ngày 11/8/2012 có bài: “Tỉnh Bình Dương: Chủ tịch UBND huyện thách thức pháp luật”.
Báo Thanh tra: Số 24 phát hành ngày 16/6/2013 có bài:Tân Uyên, Bình Dương: Chính quyền địa phương vi phạm pháp luật về đất đai”.
NỘI DUNG VỤ VIỆC
A.     Những sự thật không thể bị bóp méo, xuyên tạc: Nguồn gốc, thời điểm và quá trình sử dụng đất, hiện trạng đất:
-   Do sản xuất không hiệu quả nên ngày 22-6-1992, Nông trường cao su Hội Nghĩa – Công ty cao su Phước Hòa có Biên bản số 38 giao  đất trồng cao su thanh lý thuộc lô K3 cho 04 cán bộ công nhân viên nông trường gồm tôi là Nguyễn Văn Tốt: 7.060m2 và 03 người là: ông Phan Sơn:   18.790m2, ông Nguyễn Văn Minh: 6.260m2, ông Nguyễn Thái Lý: 4.100m2. (Có Biên bản số 38 đính kèm).
Ông Sơn và ông Minh không sử dụng đất nên tôi đã sử dụng toàn bộ diện tích gồm phần đất của tôi và của ông Sơn, ông Minh (có xác nhận của UBND xã Hội Nghĩa đính kèm).
-    Ngày 30-09-1995, UBND tỉnh Sông Bé có Quyết định số 4246/QĐ/UB điều chỉnh diện tích đất của Cọng ty cao su Phuớc Hòa. Tại Điều 3 của Quyết định số 4246/QĐ/UB, UBND tỉnh Sông Bé (nay là Bình Dương) đã giao UBND huyện Tân Uyên tiến hành cho đăng ký, thống kê và xét duyệt cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  cho các hộ gia đình cá nhân đã sử dụng đất ổn định trên diện tích giao cho địa phương. (Có Quyết định số 4246 đính kèm).
-    Khi tổ chức thực hiện Quyết định số 4246/QĐ/UB của UBND tỉnh Sông Bé,  tại Biên bản ngày 30/11/1995, cả 03 cơ quan: Công ty Cao su Phước Hòa – UBND xã Hội Nghĩa – Phòng Địa chính cùng xác định: 
·         Diện tích đất Công ty  giao lại đo đạc thực tế là 18ha.
·         Diện tích đất thực tế giao lại cho địa phương hiện trạng dân đã sử dụng nên KHÔNG THỂ lập kế hoạch sử dụng và lập quỹ đất công ích theo Quyết định 4246/QĐ-UB của UBND tỉnh được.
·         Tạm thời thống nhất số liệu diện tích kiểm kê của Công ty nhưng khi tiến hành cấp giấy chứng nhận phải đo đạc lại.
(Có Biên bản ngày 30/11/1995 đính kèm)
Như vậy tại Biên bản này, cả Công ty Cao su Phước Hòa – UBND xã Hội Nghĩa – Phòng Địa chính đều thống nhất toàn bộ diện tích 18ha đất KHÔNG THỂ lập lập quỹ đất công ích, đồng thời chủ trương cấp sổ đỏ cho dân đang sử dụng theo Quyết định 4246/QĐ/UB. Do dó, phần đất của tôi đang sử dụng nêu trên hoàn toàn không phải đất công ích.
-   Thực tế 14ha trong 18 ha đất trên đã được cấp sổ đỏ. Phần đất của ông Nguyễn Thái Lý được Nông trường giao liền kề phần đất của tôi (đo đạc thực tế là 5.643m2)  hiện nay thuộc thửa 30 tờ bản đồ 17 ông Nguyễn Thái Lý đã được UBND huyện Tân Uyên cấp sổ đỏ số 00584 từ ngày 16-05-2000 (có sổ đỏ của ông Lý đính kèm).
Trên thực tế gia đình tôi đã sử dụng toàn bộ diện tích đất không phát sinh tranh chấp gồm phần đất của tôi và của ông Sơn, ông Minh 21 năm qua (từ năm 1992 đến nay) và đây là nguồn sống duy nhất của gia đình tôi. Phần đất hiện nay thuộc thửa 28 tờ bản đồ 17 (lô K3 cũ) tọa lạc tại ấp 1 xã Hội Nghĩa đo đạc thực tế là 43.670m2.
Hiện nay đất vẫn do gia đình tôi đang sử dụng, trên đất có nhà tạm và các loại cây do tôi trồng: Tràm và điều từ 7 đến 10 năm tuổi, cao su 02 năm tuổi và nhiếu loại cây trồng khác.
B.     UBND xã Hội Nghĩa, UBND huyện Tân Uyên thách thức pháp luật, xuyên tạc, bóp méo sự thật.
1.       UBND xã Hội Nghĩa và UBND huyện Tân Uyên đã 03 lần lập khống hồ sơ để cấp sổ đỏ cho bà Đỗ Thị Thu.
Tôi là ngừơi ĐANG sử dụng hợp pháp, liên tục ổn định trên 20 năm phần đất trên và có đủ các điều kiện để được cấp sồ đỏ theo quy định của pháp luật nhưng không được UBND huyện cấp.
Tuy nhiên UBND xã Hội Nghĩa và UBND huyện Tân Uyên 03 lần “làm xiếc” lập khống hồ sơ để cấp sổ đỏ cho bà Đỗ Thị Thu mặc dù bà Thu thực tế KHÔNG sử dụng đất và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để sử dụng đất.
Ø  “Làm xiếc” Lập khống hồ sơ  để cấp sổ đỏ lần 1:
-         Mặc dù không phải đất công ích (được xác định tại Biên bản ngày 30/11/1995) nhưng UBND xã Hội Nghĩa đã dối trá bịa đặt, đổi trắng thành đen rằng phần đất trên là “đất công ích do ông Tốt thuê để sử dụng” nên ngay sau khi tôi bán thành quả, cây trồng trên đất cho ông Trương Văn Chiêu (chồng bà Thu) để cải tạo đất thì ngày 28/6/2001 UBND xã Hội Nghĩa dối trá, bịa đặt rằng tôi “đã chấm dứt Hợp đồng thuê đất công ích” nên UBND xã đã lập KHỐNG Hợp đồng cho ông Chiêu thuê đất công ích.
Hợp đồng lập KHỐNG giữa UBND xã và ông  Chiêu là trái pháp luật vì không phải đất công ích và đất tôi đang sử dụng chưa có quyết định thu hồi nên vi phạm điều kiện giao đất đang có người sử dụng cho người khác (Điều 21 Luật đất đai 1993) và vi phạm về thẩm quyền cho thuê đất (Điều 24 Luật đất đai 1993).
-         Đến ngày 28/4/2004, UBND huyện Tân Uyên đã cấp KHỐNG sổ đỏ số 01767 cho bà Thu đối với phần đất trên vì “hoán đổi đất công ích” mặc dù thực tế đất vẫn do tôi canh tác sử dụng mà chưa có quyết định thu hồi đất. (Sổ đỏ cấp khống lần 1).
-         Đến ngày 31-12-2008, bà Thu bán phần đất trên (mua bán KHỐNG trên giấy tờ) cho Tổng công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ nhưng do tôi kịp thời phát hiện và có đơn kiến nghị thu hồi sổ đỏ của bà Thu  nên ngày 24/3/2010, UBND huyện Tân Uyên phải ban hành Quyết định số 1055/QĐ-UBND thu hồi sổ đỏ của bà Thu. Tuy nhiên, UBND huyện đã né tránh sự thật nên nêu lý do thu hồi là: “Cấp sai trình tự thủ tục”. (Sổ đỏ cấp khống lần 1 cho bà Thu bị thu hồi).
(Người ký cấp sổ đỏ Khống lần 1 cho bà Thu là ông Huỳnh Thành Long hiện nay đang là Bí thư Huyện ủy Tân Uyên).
Ø   “Làm xiếc” lập khống hồ sơ  để cấp sổ đỏ lần 2:
-   Trong Đơn đề nghị cấp sổ đỏ của bà Thu đề ngày 26-3-2012, UBND xã Hội Nghĩa đã dối trá khi xác nhận nguồn gốc đất của hộ bà Thu là: “Hoán đổi đất công ích từ năm 2004”  mặc  dù thực tế đất tôi vẫn đang sử dụng và không thuộc quỹ đất công ích.
-   Ngày 29-6-2012, UBND huyện Tân Uyên cấp sổ đỏ số 01968  cho bà Đỗ Thị Thu. (Cấp lần thứ 2).
-   Do ngày 19/7/ 2012 tôi có đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy sổ đỏ của bà Thu nên ngày 23/7/2012, UBND huyện Tân Uyên đã ban hành Quyết định số 6564/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số 5999/QĐ-UBND ngày 29-06-2012 và sổ đỏ số 01968  cho bà Đỗ Thị Thu . Lý do thu hồi: “Cấp sai đối tượng”. (Sổ đỏ cấp khống lần 2 cho bà Thu bị thu hồi).
Ø Cố ý làm trái đến cùng: “Làm xiếc” lập khống hồ sơ  để cấp sổ đỏ lần 3:
-      Trong Đơn đề nghị cấp sổ đỏ của bà Thu đề ngày 13/8/2012, UBND xã Hội Nghĩa “làm xiếc” để xác nhận nguồn gốc đất của bà Thu là: “Hoán đổi đất công ích từ năm 2004”  mặc  dù thực tế đất tôi đang sử dụng không thuộc quỹ đất công ích.
Thực tế năm 2004, giữa UBND xã Hội Nghĩa và bà Đỗ Thị Thu hoàn toàn không có ký kết Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất và đât tôi vẫn sử dụng.
-      Chỉ sau 06 tháng thu hồi sổ đỏ lần thứ 2, đến ngày  28/12/2012, UBND huyện Tân Uyên cấp sổ đỏ số  02151 cho bà Đỗ Thị Thu. (Sổ đỏ cấp khống lần thứ 3).
-      Sau khi cấp KHỐNG sổ đỏ lần thứ 3 cho bà Thu, UBND xã Hội Nghĩa và UBND huyện Tân Uyên đã tiếp sức cho bà Thu lập lại thủ tục bán phần đất này cho Tổng công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ khi thực tế tôi vẫn đang sử dụng đất.
(Người 2 lần ký cấp sổ đỏ Khống lần 2 và lần 3 cho bà Thu là ông Phan Chí Thành hiện nay vừa được lên chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tân Uyên).
Do có sự hậu thuẫn của Chính quyền 3 cấp nên hiện nay Công ty Thanh Lễ luôn có hành vi cản trở việc sử dụng đất của tôi vì cho rằng: đất Công ty đã mua của bà Thu!
2.       UBND huyện Tân Uyên cố ý từ chối cấp sổ đỏ cho tôi mặc dù tôi đủ điều kiện được cấp.
Căn cứ váo nguồn gốc, thời điểm, quá trình sử dụng đất, chủ trương của UBND tỉnh Sông Bé và các quy định của pháp luật đất đai có hiệu lực hiện hành thì  tôi hoàn toàn có đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ :
Thứ nhất: Về nguồn gốc, thời điểm và quá trình sử dụng đất. Phần đất này hoàn toàn không thuộc quỹ đất công ích thể hiện tại Biên bản ngày 30/11/1995 của 03 cơ quan: Công ty Cao su Phước Hòa – UBND xã Hội Nghĩa – Phòng Địa chính. Tôi là ngừơi đã sử dụng đất ổn định, liên tục từ trước ngày 15-10-1993 đến nay. (Tôi đã bắt đầu sử dụng đất từ ngày 22/6/1992).
Thứ 2: Về chủ trương của UBND tỉnh Sông Bé. Tại Điều 3 của Quyết định 4246/QĐ/UB  ngày 30-9-1995 của  UBND tỉnh Sông Bé  nêu trên có quyết định “tiến hành cho đăng ký, thống kê và xét duyệt cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  cho các hộ gia đình cá nhân đã sử dụng đất ổn định trên diện tích giao cho địa phương”.
Thực tế phần đất của ông  Nguyễn Thái Lý do Nông trường giao cùng ngày với tôi đã được cấp sổ đỏ số 00584 từ ngày 16-05-2000.
Thứ  3: Về cơ sở pháp lý.
Theo Điều 49 Luật đất đai năm 2003 thì ngừời đang sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003 được cấp sổ đỏ.
Theo Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai năm 2003, điểm a Khoản 2 Điều 14 Nghị định 84/2007/NĐ-CP: trường hợp người sử dụng đất không có 01 trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 nhưng đã sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993 thì vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
-    Theo Luật đất đai năm 1987 thì Nông trường cao su Hội Nghĩa không có thẩm quyền giao đất nhưng Luật đất đai năm 1987 đã hết hiệu lực từ ngày 15/10/1993.
Theo Khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì chỉ những diện tích đất do lấn chiếm, và được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01/7/2004 trở về sau mới không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bị thu hồi toàn bộ diện tích.
-    Biên bản số 38/NN/NT ngày 22/6/1992 của Nông trường cao su Hội Nghĩa không phải là 01 quyết định giao đất nên không được coi là 01 trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 1 Điều 50 Luật đất đai 2003.
Tuy nhiên tôi đã sử dụng đất từ tháng 6/1992 nên vẫn được cấp sổ đỏ theo quy định tại khoản 4 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Theo điểm a Khoản 2 Điều 14 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ thì tôi được cấp GCNQSDĐ và không phải nộp tiền sử dụng đất
Mặc dù tôi đủ điều kiện được cấp sổ đỏ đối với 43.670m2 đất nêu trên theo điểm a Khoản 2 Điều 14, Khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP và Khoản 4 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 nhưng UBND xã Hội Nghĩa và UBND huyện Tân Uyên đã lưu manh dối trá, bịa đặt, bóp méo sự thật và bẻ cong pháp luật đề từ chối cấp sồ đỏ cho tôi tại Văn bản số 2673/UBND-TD ngày 22/11/2010 cụ thể là:
-    Dối trá, bịa đặt, đổi trắng thành đen rằng: phần đất trên là “thuộc quỹ đất công ích”.
-    Bịa đặt rằng:  tôi đã thuê đất công ích cũa UBND Hội Nghĩa xã và xin chấm dứt hợp đồng thuê đất.
-    Bịa đặt ra 01 Biên bản sang nhượng thành quả trên đất có nội dung trái luật, mâu thuẫn sai sự thật và chữ ký giả mạo.
-    Cố ý căn cứ văn bản pháp luật đã hết hiệu lực  20 năm khi cho rằng “Theo Luật đất đai năm 1987 thì Nông trường cao su Hội Nghĩa không có thẩm quyền giao đất”.
-    UBND huyện Tân Uyên đã “Cố ý QUÊN” quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì chỉ những diện tích đất do lấn chiếm, và được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01/7/2004 trở về sau mới không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bị thu hồi toàn bộ diện tích.
Ngoài việc cố ý từ chối cấp sổ đỏ cho tôi nhưng 03 lần lập hồ sơ cấp sổ đỏ khống cho bà Thu nêu trên, UBND xã Hội Nghĩa và UBND huyện Tân Uyên  còn có nhiều hành vi vô nhân đạo khác nhằm trả thù và cản trở không cho tôi sử dụng phần đất trên như:
-        Ép buộc Điện lực Tân Uyên cắt điện không cho tôi sử dụng điện tại khu đất.
-       Hủy hoại tài sản của con gái tôi (Nguyễn Thị Ngọc Bích) là căn nhà tạm trên đất. Ngày 12/4/2012 con tôi đã có đơn tố cáo nhưng hơn 01 năm qua vẫn không được giải quyết.
-        Trắng trợn Vu khống cho rằng tôi “lấn chiếm đất”.
-        Thường xuyên phiền hà, sách nhiễu cản trở việc sử dụng đất của gia đình tôi.
Tất cả các hành vi này tôi đã nhiều lần có đơn tố cáo nhưng đều bị Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương bảo kê, bao che làm ngơ không giải quyết.
C.  Ông Lê Thanh Cung –Chủ tịch và ông Trần Văn Nam- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương đã dối trá, bịa đặt, cố ý bóp méo sự thật để bảo kê, bao che cho UBND huyện Tân Uyên và UBND xã Hội Nghĩa.
Báo chí đã nhiều lần phản ánh và tôi đã tố cáo UBND huyện Tân Uyên về hàng loạt các vi phạm pháp luật nêu trên nhưng ông Lê Thanh Cung và ông Trần Văn Nam vẫn tiếp tục dối trá, bịa đặt, cố ý bóp méo sự thật, bảo kê, bao che cho UBND huyện Tân Uyên và UBND xã Hội Nghĩa. Cụ thể:
1.  Đối với ông Trần Văn Nam- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương (ông Nam nguyên là Bí thư Huyện ủy Tân Uyên).
Khi UBND huyện Tân Uyên không cấp sổ đỏ cho tôi nhưng lại lập hồ sơ cấp khống sổ đỏ cho bà Thu (cấp khống lần 1) nên ngày 16/4/2011 tôi có đơn tố cáo thì ông Nam ký Văn bản số 371/TB-UBND ngày 02-12-2011 thông báo kết quả giải quyết đơn tố cáo của tôi cho răng tôi tố cáo sai. Ngoài việc “Quên luật” như bài“Tỉnh Bình Dương: Hệ lụy từ hợp đồng thuê đất trái luật” trên Báo Người Cao tuổi Số 28 phát hành ngày 27/3/2012 phản ánh thì Văn bản còn nhiều nội dung bịa đặt  trái luật đất đai vừa mâu thuẫn về nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất: Văn bản số 371/TB-UBND trái với Điều 3 Quyết định 4246/QĐ-UB ngày 30-9-1995 của UBND tỉnh Sông Bé khi Quyết định số 4246/QĐ-UB ngày 30-9-1995 giao UBND huyện Tân Uyên cấp GCNQSDĐ cho người đang sử dụng đất ổn định
Thứ 2: Bịa đặt là “đất công ích”.
Thứ 3: Ngụy biện mâu thuẫn “ngây ngô, ngớ ngấn”. Cụ thể là:
-  “Việc giao đất là để trồng cao su chứ không phải giao quyền sử dụng đất rồi có đoạn lại nói ““ông Tốt  đã chấm dứt quyền sử dụng đất từ năm 2001” khi tôi bán cây trồng để cải tạo đất.
-  Nếu đã “không phải giao quyền sử dụng đất” cho tôi (ông Tốt) thì tại sao lại ông Nam lại nói tôi (ông Tốt) đã “chấm dứt quyền sử dụng từ năm 2001”?
- Tôi “trồng cao su” không phải là tôi “sử dụng đất?
- Tại sao trong tổng 18ha đất có cùng nguồn gốc và quá trình sử dụng thì 14ha đã được cấp sổ đỏ, trong đó đất của ông Nguyễn Thái Lý liền kề đã được UBND huyện  cấp sổ đỏ số 00584 ngày 16-05-2000?) còn 4,3ha đất tôi sử dụng thì không được cấp?
Thứ 4: Căn cứ theo cơ sở pháp lý nào để ông Nam cho rằng khi tôi bán cây trồng trên đất là tôi (ông Tốt) đã bị “chấm dứt” quyền sử dụng đất? Và việc “chấm dứt đó thể hiện dưới loại văn bản cụ thể nào? Văn bản đó của ai? Văn bản đó có đúng thẩm quyền và thể thức không? Văn bản đó có hiệu lực pháp lý chấm dứt quyền sử dụng đất không?
2.      Đối với ông Lê Thanh Cung –Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương.
Ngảy 29-6-2012 UBND huyện cấp khống sổ đỏ số 01968  (cấp khống lần thứ 2) cho bà Thu thì Báo Người cao tuổi số 96 phát hành ngày 11/8/2012 có bài: “Tỉnh Bình Dương: Chủ tịch UBND huyện thách thức pháp luật  và tôi có đơn tố cáo UBND huyện Tân Uyên tiếp tục cố ý làm trái đến cùng khi lập hồ sơ  khống để cấp sổ đỏ lần 2 cho bà Thu.
Đến ngày 23/7/2012, UBND huyện Tân Uyên đã buộc phải ban hành Quyết định số 6564/QĐ-UBND thu hồi sổ đỏ số 01968  của bà Thu. Lý do thu hồi: “Cấp sai đối tượng”. (Sổ đỏ bị thu hồi lần 2) do tôi khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy sổ đỏ đã cấp khống lần thứ 2 này.
Nhưng sự tráo trở  đến trơ trẽn  và mỉa mai - hài hước của ông Lê Thanh Cung là sổ đỏ cấp khống lần 2 cho bà Thu đã bị thu hồi từ ngày 23/7/2012 nhưng  8 tháng sau, (đến ngày 25/4/2013) thì ông Lê Thanh Cung –Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương vẫn có Thông báo số 89/TB-UBND trả lời tôi, nội dung: Tôi tố cáo là sai vì UBND huyện không cấp sổ đỏ cho tôi nhưng cấp sổ đỏ số 01968  cho bà Thu là đúng!.
Tại Văn bản số 89/TB-UBND này, ông Lê Thanh Cung tiếp tục LƯU MANH, tráo trở, bịa đặt bóp méo sự thật tương tự như ông Trần Văn Nam tại Văn bản số 371/TB-UBND ngày 02-12-2011. Cụ thể là:
-    Dối trá, bịa đặt, đổi trắng thành đen rằng: phần đất trên là “thuộc quỹ đất công ích 5%”.
-    Bịa đặt rằng:  tôi đã thuê đất công ích của UBND Hội Nghĩa xã và đã xin chấm dứt hợp đồng thuê đất.
-    Bịa đặt ra 01 Biên bản sang nhượng thành quả trên đất có nội dung trái luật, mâu thuẫn sai sự thật và chữ ký giả mạo.
-    Cố ý “Quên” đi sự thật là: đất tôi vẫn đang quản lý, sử dụng mà chưa có quyết định thu hồi đất.
-    Cố ý căn cứ văn bản pháp luật đã hết hiệu lực từ 20 năm khi cho rằng “Theo Luật đất đai năm 1987 thì Nông trường cao su Hội Nghĩa không có thẩm quyền giao đất”.
-     “Cố ý QUÊN” quy định tại Khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì chỉ những diện tích đất do lấn chiếm, và được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01/7/2004 trở về sau mới không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bị thu hồi toàn bộ diện tích.
Do được ông Cung và ông Nam bảo kê, bao che nên sau khi thu hồi sổ đỏ của bà Thu lần 2,  UBND huyện Tân Uyên tiếp tục lập hồ sơ KHỐNG để cấp sổ đỏ lần thứ 3 số  02151 ngày 28/12/2012 cho bà Thu.
Thế hệ tôi cầm súng theo Đảng vì hy vọng giành chính quyền về tay nhân dân! Nhưng chính quyền nhân dân tại Bình Dương hiện nay là lại lưu manh dối trá như vậy? Công lý, luật pháp ở đâu? Hay hiện nay chỉ cần có chức quyền, có tiền là có thể đổi trắng thành đen, bẻ cong luật pháp?
          IV.   Yêu cầu giải quyết tố cáo:
Để giữ nghiêm kỷ cương pháp luật,  bảo vệ quyền lợi của tôi, tôi đề nghị:
1.   Xử lý theo pháp luật đối với ông Lê Thanh Cung - Chủ tịch và ông Trần Văn Nam- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương.
2.   Chỉ đạo xử lý các cán bộ UBND huyện Tân Uyên và UBND xã Hội Nghĩa  có sai phạm.
3.   Thu hồi sổ đỏ cấp khống trái pháp luật lần thứ 3 nêu trên của của Thu và cấp sổ đỏ cho tôi theo quy định.
4.   Có biện pháp bảo vệ tôi (người tố cáo)
5.   Thông báo kết quả xử lý cho tôi biết.
Các tài liệu gởi kèm Đơn tố cáo:
A- Nhóm Tài liệu chứng minh tôi sử dụng đất là hợp pháp, đủ điều kiện cấp sổ đỏ:
1.      Biên bản bàn giao đất số 38  ngày 22-6-1992 của Nông Trường cao su Hội Nghĩa
2.      Xác nhận của Nông Trường cao su Hội Nghĩa và Công ty Cao su Phước Hòa ngày 08-05-1993.
3.      Quyết định số 4246 ngày 30/9/1995 của UBND tỉnh Sông Bé.
4.      Biên bản  ngày 30/11/1995 của: Công ty Cao su Phước Hòa – UBND xã Hội Nghĩa – Phòng Địa chính
5.      Xác nhận của UBND xã Hội Nghĩa  ngày 03-6-1998.
6.      Biên bản sang nhượng thành quả, cây trồng trên đất với ông Chiêu.
7.      Sổ đỏ số 00584 ngày 16-05-2000 của ông Nguyễn Thái Lý
B- Nhóm Tài liệu chứng minh việc UBND huyện Tân Uyên và UBND xã Hội Nghĩa thách thức, bẻ cong pháp luật:
1.      Văn bản số 2673/UBND-TD ngày 22/11/2010 của UBND huyện Tân Uyên.
2.      Sổ đỏ số 01767 cấp ngày 28/4/2004 của bà Thu (cấp khống lần 1)
3.      Quyết định số 1055/QĐ-UBND ngày 24/3/2010 thu hồi sổ đỏ của bà Thu (thu hồi sồ lần 1),
4.      Đơn đề nghị cấp sổ đỏ của bà Thu đề ngày 26-3-2012. (cấp lần 2).
5.      Sổ đỏ số 01968  cấp ngày 29-6-2012, của bà Thu. (Cấp khống lần thứ 2).
6.      Quyết định số 6564/QĐ-UBND ngày 23/7/2012 thu hồi sổ đỏ của bà Thu (thu hồi lần 2).
7.      Đơn đề nghị cấp sổ đỏ của bà Thu đề ngày 13/8/2012 (cấp lần 3).
8.      Sổ đỏ số  02151 cấp  ngày  28/12/2012 của bà Thu. (Sổ đỏ cấp khống lần thứ 3).
C- Nhóm Tài liệu chứng minh việc Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương dối trá bịa đặt để bảo kê, bao che:
1.      Văn bản số 371/TB-UBND ngày 02-12-2011 của UBND tỉnh Bình Dương
2.      Thông báo số 89/TB-UBND ngày 25/4/2013 của UBND tỉnh Bình Dương
3.      Báo Người cao tuổi: Số 28 phát hành ngày 27/3/2012 và Số 96 phát hành ngày 11/8/2012.
4.      Báo Thanh tra: Số 24 phát hành ngày 16/6/2013.
Tôi xin cam đoan những điều trình bày trên là đúng sự thật. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Hội Nghĩa, ngày 12 tháng 9  năm 2013.
Người tố cáo


Nguyễn Văn Tốt


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét